Top kiến tạo VĐQG Uganda 2024/25, Vua kiến tạo vdqg uganda
Vua kiến tạo (VKT), Top kiến tạo VĐQG Uganda mùa giải 2025: cập nhật top kiến tạo giải VĐQG Uganda mới nhất. cacuoc7day.com tổng hợp BXH danh sách cầu thủ có nhiều đường chuyền thành bàn (assists) nhất giải bóng đá VĐQG Uganda mùa 2025 sau vòng 6 đã kết thúc hôm qua và rạng sáng ngày hôm nay. Xem top danh sách cầu thủ kiến tạo nhiều nhất giải VĐQG Uganda gần đây trên wap (mobile) và top kiến tạo bóng đá Uganda trực tuyến CHÍNH XÁC.
Giải bóng đá VĐQG Uganda có tên Tiếng Anh là Uganda Premier League và là giải đấu hàng đầu trong hệ thống giải đấu bóng đá Uganda. Xem danh sách top kiến tạo bóng đá Uganda ngày hôm nay theo giải/theo mùa bao gồm: Vua kiến tạo giải VĐQG Uganda
Cập nhật liên tục thông tin về danh hiệu chiếc giày vàng bóng đá Uganda mới nhất. Ngoài top kiến tạo bóng đá VĐQG Uganda, Topkientao còn tổng hợp NHANH nhất vua phá lưới (top ghi bàn) và top thẻ phạt bóng đá Uganda (vua thẻ phạt) với đầy đủ thông tin thống kê về số bàn thắng và thống kê cầu thủ nhận nhiều thẻ vàng, thẻ đỏ nhất.
Tên giải đấu | VĐQG Uganda |
Tên khác | |
Tên Tiếng Anh | Uganda Premier League |
Mùa giải hiện tại | 2025 |
Mùa giải bắt đầu ngày | |
Mùa giải kết thúc ngày | |
Vòng đấu hiện tại | 0 |
Thuộc Liên Đoàn | |
Ngày thành lập | |
Số lượng đội bóng (CLB) | |
Giải Bóng đá Ngoại hạng UgandaĐược dịch từ tiếng Anh-Giải Ngoại hạng Ugandan còn được gọi là Giải Ngoại hạng StarTimes Uganda vì lý do tài trợ là bộ phận hàng đầu của Liên đoàn bóng đá Liên đoàn Uganda. Giải đấu trước đây được gọi là 'Super League' nhưng đã thay đổi trong mùa giải 201415 sau khi ban lãnh đạo mới tiếp quản. Nguồn gốc của bóng đá câu lạc bộ ở Uganda là một ý tưởng sao chép từ Anh bởi Balamaze Lwanga và Polycarp Kakooza. Mục tiêu là để cải thiện màn trình diễn của Uganda tại Cúp các quốc gia châu Phi sau kết quả đáng thất vọng ở các trận chung kết năm 1962 (về thứ 4) và 1968 (thua cả 3 trận vòng bảng), đều được tổ chức tại Ethiopia. Ý định là thành lập giải VĐQG Uganda (tiền thân của Uganda Super League) để tạo nền tảng cho một đội tuyển quốc gia mạnh. Đồng thời, việc xác định các cầu thủ từ cơ sở sẽ được thực hiện dễ dàng hơn và có hệ thống. Bởi vì không có câu lạc bộ nào để thành lập liên đoàn, các tổ chức và khu học chánh được liên hệ để thành lập đội. Liên đoàn bay hàng đầu khai mạc năm 1968 bao gồm Prisons, Army, Coffee, Express, Jinja, Masaka, Mbarara và Mbale. Có ba tổ chức và bốn quận và một câu lạc bộ. [3] Giải đấu được gọi là National First Division League, và nhà vô địch giải đấu đầu tiên là Prisons FC Kampala (nay được gọi là Maroons FC). Sau bốn mùa giải, bất ổn chính trị ở Uganda đã ảnh hưởng đến giải đấu. Các chức vô địch năm 1972 và 1973 đã không hoàn thành vì tình trạng bất ổn dân sự. Năm 1974, giải đấu được gọi là Liên đoàn bóng đá quốc gia và danh hiệu này được sử dụng cho đến năm 1982 khi giải đấu được rút ngắn xuống còn mười đội và được đổi tên thành Super League (rút gọn thành Super Ten trong mùa giải khai mạc đó). |